Du lịchGiải tríGiáo dụcHmong_MediaKinh tếLịch sử Dân tộcNewsNghiên Cứu Khoa HọcSự kiệnTrang PhụcVăn hóa - Phong tục

PHONG TỤC VÀ VĂN HÓA DÂN TỘC

Người H’mông là một trong những dân tộc thiểu số có dân số đông ở miền Bắc Việt Nam. Cùng với 54 dân tộc anh em, người H’mông luôn luôn là một phần của sự thống nhất khối đại đoàn kết dân tộc và góp phần làm phong phú cho nền văn hoá dân tộc Việt Nam.

Đồng bào có câu “Lửa cháy đến đâu người H’mông theo đến đó” hay “Người chạy theo nương” để nói về cuộc sống du canh nương rẫy. Sản phẩm nông nghiệp chính là ngô, lúa nương, khoai, mạch ba góc, ý dĩ, lạc, vừng, đậu và các loại rau… ở một vài nơi có ruộng bậc thang. Các loại quả táo, đào, mận, lê cũng rất nổi tiếng và đồng bào còn trồng cả các loại cây thuốc như tam thất, xuyên khung, đảm xâm…

Nghề dệt vải lanh là một trong những hoạt động sản xuất đặc sắc của người H’mông. Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng; làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công H’mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp, làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, dao, cuốc, xẻng, nòng súng đạt trình độ kỹ thuật cao.

Trang phục của người phụ nữ H’mông thường là màu Trắng, xanh, vàng, đỏ đen, có bộ thì thêu hoa văn sặc sỡ, trang phục đa dạng giữa các nhóm dân tộc, gồm: váy, áo xẻ ngực có yếm lưng, tấm xiêm che trước bụng, thắt lưng, khăn quấn đầu, xà cạp quấn hai bụng chân. Váy hình nón cụt, xếp nếp xòe rộng chữ thập trong các hình vuông, nhưng váy mang hình ống, khi mặc mới xếp nếp thắt lưng ngoài cạp; Áo mở chếch ngực về phía bên trái, cài một khuy, cánh tay, cổ áo, gấu áo đều thêu hoa văn…Đồ trang sức bao gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn.

Ảnh minh họa

Trang phục của đàn ông H’mông giống như đàn thường là màu trắng, đen, nâu tím hoặc màu xanh: quần dài, đũng chân què cạp lá tọa, áo dài bình thường dưới thắt lưng hoặc ngắn ống rộng cổ đứng mổ bụng khuy cài, quần áo đều màu chàm.

Người H’mông sống quần tụ trong từng bản có vài chục nóc nhà, nhiều nơi đồng bào xây rào đá ngang quanh nhà ở. Nhà cửa là loại nhà trệt, ba gian, có từ hai đến ba cửa. Phổ biến là nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh, trình tường đất. Những ngôi nhà của người H’mông giàu có, trình tường xung quanh, cột gỗ thông kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói âm dương có gác lát ván.

Nhà Trình tường – Ảnh: Internet

Các vùng người H’mông sinh sống thường có chợ phiên, vừa là nơi trao đổi hàng hoá, vừa là nơi thể hiện nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt. Người H’mông quen dùng ngựa thồ hàng và cưỡi đi chợ, gùi có hai quai đeo vai. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình người H’mông.

Người H’mông rất coi trọng dòng họ, họ quan niệm: người cùng dòng họ là những người anh em có cùng tổ tiên, có thể đẻ và chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau, cưu mang nhau. Mỗi dòng họ cư trú quây quần thành một cụm, có một trưởng họ đảm nhiệm công việc chung. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.

Phong tục H’mông

Người H’mông cũng như nhiều dân tộc ít người khác tồn tại tín ngưỡng đa nguyên. Chủ nhà thờ cúng tổ tiên là thờ những người cùng họ và gia đình đã chết ba đời trở lại. Thờ cúng tổ tiên ở tất cả gia đình những người con trai đã tách ra ở riêng chứ không phải chỉ con trưởng. Bên cạnh thờ cúng tổ tiên, người H’mông còn tồn tại một hệ thống ma nhà với những lễ thức cúng bái riêng biệt.

Hôn nhân gia đình của người H’mông theo tập quán tự do kén chọn bạn đời. Những người cùng dòng họ không lấy nhau. Thanh niên nam nữ được lựa chọn bạn đời. Việc lựa chọn bạn đời nhà trai phải cử 1 người có thể là Bác cả cùng con trai đi hỏi vợ, nếu hỏi được (có nghĩa cô gái đồng ý) thì cô gái có thể về cùng luôn rồi hẹn lễ sau hoặc phải hẹn lễ và ngày ra đón (Cái tồn tại từ xưa trong dân tộc H’mông là thường đi hỏi vợ ở tuổi dưới 18 tuổi). Trên 18 tuổi thường là những người trưởng thành và thuộc dạng tài năng thì họ tự đi hỏi vợ hoặc đi tán người mình thích thường họ sẽ tham gia hát giao duyên, thổi sáo, thổi khèn, … rồi đưa cô gái mình thích về làm vợ rồi 3 ngày sau nhà trai mới đi báo cho nhà gái. Cũng có trường hợp con gái đến nhà chơi hoặc nhà họ hàng nếu thích nhau con gái cũng có thể ở lại làm vợ luôn. Còn trường hợp cuối, do nhà trai không có người tài giỏi ăn nói, hiểu biết phong tục và nhà nghèo thì họ sợ các luật lệ trong văn hóa dân tộc về cưới hỏi nên họ chọn cách đi kéo người con gái mình thích. Vì đi kéo lại được người mình thích và lại không cần nói hay mất cái gì hoặc thời gian để có được vợ, người con trai có thể đi một mình hoặc đi cùng bạn bè kéo người con gái mình thích về ở nhà mình, nếu cô gái ấy thích thì sẽ về cùng vì ngày xưa là đi bộ không thể kéo từ hội về tới nhà tuy nhiên có trường hợp con gái đồng ý về nhưng khi đến cửa thì bỏ chạy, còn nếu đã vào được có nghĩa đồng ý cúng khi bước vào cửa nhà nhà trai thì là người nhà đó. Nếu hôm về là ngày tốt thì 3 ngày sau nhà trai sẽ cử 1 người đi thông báo cho gia đình nhà gái biết. Khi cô gái về làm vợ khi bước vào nhà qua thủ tục ở cửa chính là mất giá trị một cô gái họ về nhà gái cũng không phải người một nhà nữa và con trai thì rất khó lấy 1 người vợ nên họ rất ít bỏ nhau. Họ sống với nhau hòa thuận, cùng làm ăn, cùng lên nương, xuống chợ …

Người H’mông có đời sống văn hóa nghệ thuật khá phong phú, đặc biệt là văn học, truyện kể truyền miệng có rất nhiều thể loại, như Truyện thần thoại về anh hùng có phương thuốc trị được người chết sống lại, tìm ra lửa, tìm ra loại giống, tạo ra công cụ lao động và dạy người H’mông cách trồng ngô, lúa, trồng lanh làm vải mặc … Truyện cổ tích về các con vật chiếm khá nhiều, đặc biệt là truyện về hổ, gấu…

Đón dâu của người H'mông
Đón dâu của người H’mông

Người H’mông say đắm dân ca dân tộc mình, đó là Tiếng hát tình yêu Tiếng hát cưới xin, văn hóa tục tộc, cuộc sống, … mà họ thường hát khi lao động nương rẫy, trong lúc se sợi dệt vải, trong khi đi chợ, đi hội.

Trong những dịp lễ hội, đặc biệt là hội Gầu tào (chào đón năm mới), những bài hát dân ca này không chỉ thể hiện bằng lời mà còn có thể giãi bày thông qua những nhạc cụ dân tộc (sáo, khèn, kèn lá, đàn môi…). Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình. Sau một ngày lao động mệt mỏi, thanh niên dùng khèn, đàn môi gửi gắm và thể hiện tiếng lòng mình với bạn tình, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống, của quê hương, đất nước.

Trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, tính đến nay dân tộc H’mông là một trong những dân tộc ít bị mai một hơn về bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc dù cuộc sống đổi mới rất nhiều. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế như hiện nay, để phát triển mà không bị hoà tan, mất bản sắc, thì việc bảo tồn văn hoá dân tộc đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, tâm huyết, bền bỉ, lâu dài. Có như thế những giá trị văn hoá sẽ mãi mãi được gìn giữ và phát huy.

#Vanhoadantoc

Admin (Hmong Viet Nam) #Hmong

Chia sẻ ngay

About Author

Comment here