Truyền Thuyết H’mông. Câu chuyện về con tằm và con ếch rồng –
lưu truyền rằng người H’mông(Miao) là những người đầu tiên phát minh ra nghề trồng dâu nuôi tằm
Tơ lụa là quốc bảo của nền văn minh Trung Hoa cổ đại, Con đường tơ lụa mở ra từ thời nhà Hán đã du nhập nền văn minh vật chất của đất nước cổ đại phương Đông sang phương Tây.
Vào thời cổ đại, nhiều nhà văn học và thợ mực đã viết nhiều bài thơ về dân cư kiệt quệ dựa trên nền văn hóa trồng dâu nuôi tằm. Bài thơ cổ “Tháng Tư ở quê” ca ngợi văn hóa trồng trọt, trồng dâu với dòng thơ nổi tiếng “núi xanh đồng bằng sông trắng, mưa tiếng lệ, tháng tư nhàn rỗi ít người thôn quê, chỉ khi nghề trồng dâu. còn dâu thì trồng ngoài đồng ”. Nhà thơ Li Shangyin thời nhà Đường đã ca ngợi nền văn minh vật chất của nhân loại khi nói rằng “con tằm vào mùa xuân sẽ kiệt sức khi ngọn đuốc tơ biến thành tro và nước mắt bắt đầu khô” và Su Zheng “con tằm nhả tơ và tiếp tục giải cứu thế giới ”. Nhà thơ Trương Vũ thời Bắc Tống đã tiết lộ nỗi cay đắng của những nàng tằm nộp lụa cho chính quyền bằng cách sử dụng “Những nàng tằm” mà “hôm qua đi vào thành, trở về đầy khăn, ướt cả áo, không phải người nuôi tằm ”. Tao Yuanming, một nhà thơ mục vụ thời Đông Tấn, đã dùng những vần thơ “xuân tằm thu sợi, thu thu thuế vương” để tạo nên “thiên địa”.
Vào thời Ngũ Hoàng, ở trung hoa đã phát minh ra nghề trồng dâu nuôi tằm, sử sách lâu đời không thể ghi chép ai là người đã phát minh ra tơ lụa. “Sách nhà Tùy” ghi lại rằng vào thời Bắc Chu, “Dazai đã hy sinh bản thân mình cho các vị thần của gia đình nuôi tằm.” Thời Nam Tống “Đường sử” có ghi: “Gia tộc Xiling thuyết phục tằm thu hoạch, và các con tằm bắt đầu việc này “Vợ lẽ của Huangdi gia tộc Xiling không phải là tơ lụa. Nhà sáng chế chỉ dạy dân chúng nuôi tằm và dệt lụa. Có rất ít câu chuyện về nghề trồng dâu được lan truyền trong dân gian. Chỉ có truyền thuyết Hán “Chuyện Ma Nương” và truyền thuyết Tương Tây H’mông “Chuyện Con tằm và con Ếch rồng” là những tác phẩm tiêu biểu.
Chương đầu tiên của “Hai mươi bốn cuộc lãng mạn lịch sử” của học giả thời nhà Thanh Lu Shian, dựa trên “Câu chuyện của Ma Niangniang”, đã viết: “Đất Thục lâu đời và đã bị các nước láng giềng cướp bóc. Nó đã hơn một Năm Chỉ có con ngựa mà nó cưỡi, Con gái nghĩ đến cảnh cha cô lập, hoặc bỏ ăn, mẹ cô an ủi cô, vì cô đã thề với mọi người: “Nếu có cha trở về, con gái sẽ lấy cha”. Thuộc hạ chỉ có thể nghe thấy lời nói, không có khả năng khiến cho phụ thân trở về, ngựa nghe xong liền kinh ngạc, nhanh chóng chạy tới, mấy ngày sau, phụ thân lên ngựa trở về, ngựa thở dài không dứt. Người cha hỏi nguyên do, người mẹ thề không có gì, Người cha nói: “Hỡi kẻ khác, không bằng ngựa, và có người trang bị cho ngựa?” Nhưng anh ta khiêm nhường, và ngựa không muốn ăn. Mỗi khi một cô gái ra vào, anh ta nổi giận và chứng kiến, Cha tức giận, bắn anh ta và phơi da trước tòa. Người đàn bà đi qua hông nó, da ngựa đập lên, và cô gái bay đi. ngày lấy được da trên cây lớn, người đàn bà biến thành con tằm ăn lá, quay tơ thành kén Vì cây là cây dâu, Con dâu làm tang Cha mẹ tiếc nuối khôn nguôi. về chuyện ấy, bỗng họ thấy nàng tằm cưỡi mây bay, lái ngựa này canh giữ mấy chục người, truyền rằng cha mẹ rằng: “Trời lấy đạo hiếu làm đời, ban cho bổn phận hầu hạ bất tử trong chín tầng trời. cung điện. Sống lâu trên trời, không nhớ tới. ‘Con đi phương trời xa Cha mẹ chịu không nổi, năm nào cũng kén rể, sinh con trai, nhận nuôi. Nó đã là của vấn đề của triều đại, và nhà họ Xiling đã thông qua nó. Một ngày, tôi sẽ luôn luôn có một ít kén được cho vào canh, và lụa được kéo bằng nó, giữ chặt và liên tục, và dệt thành lụa. dệt lụa làm quần áo, đời sau làm con tằm tiên ”.
So với “Chuyện về Ma Nương”, “Chuyện về con tằm và con ếch rồng” lưu truyền ở huyện H’mông, huyện Phượng Hoàng, tỉnh Tương Tây, phù hợp với sự thật lịch sử hơn. Truyền thuyết này kể:
Thời cổ đại, hôn nhân trên thế giới đầu tiên là nam kết hôn với nữ, sau đó là nữ kết hôn với nam. Trong thôn có một gia đình người H’mông sinh sống, chỉ còn mẹ già nương tựa nhau, con gái mười tám tuổi đã đẹp như hoa, mẹ già vẫn muốn gả con trai cho. -làm sai và từ chối kết hôn với con gái bà. Thấy mùa xuân đến gần, không có người đến giúp làm ruộng, bà xót xa, xuống giếng lấy nước, bà khóc và nói: “Nếu có một người đàn ông đến giúp việc làm ruộng, tôi sẽ gả con gái cho tôi . “
Nghe xong lời của bà lão, ếch rồng ở Jingli đi ra và nói: “Mẹ già, nếu bà không ghét tôi, tôi có thể làm con rể bà, đốn củi, chăn bò, cày ruộng. và làm tất cả mọi thứ. “Nếu bạn muốn một con ếch lớn có thể nói chuyện, nó chắc chắn không phải là một con ếch bình thường, vì vậy tôi đã phải đồng ý. Ếch rồng nhảy về nhà với mẹ già, sau khi con gái hỏi tại sao, bà bắt đầu kêu khó chịu. Bà mẹ già muốn kiểm tra khả năng của ếch rồng nên đã rủ ếch rồng hôm nay đi gặm cỏ và đốn củi. Khi ếch rồng bước đến chuồng bò, một vài con nhảy cởi dây buộc trâu và lùa trâu lên dốc gặm cỏ. Ếch rồng nhặt củi bó lại, cõng lên lưng bò, chiều tối chở bò về nhà. Khi bà mẹ già nhìn thấy con ếch rồng có thể làm được những điều này, trong lòng bà đã biết điều gì đó.
Hôm sau, mẹ già hẹn ếch rồng ra đồng cày. Ếch rồng vẫn cởi dây cáp bò, đeo cái cào vào lưng bò rồi lùa bò xuống ruộng, nhảy được vài cái thì bò A quàng vào cổ bò, đeo dây cáp và cái cày vào, nó đang ngồi trên tay máy cày, kêu gào Đi cày bừa ruộng. Bà mẹ già ra đồng xem bí nên quyết định con ếch phải là ếch rồng.
Khi gieo hạt, ếch rồng gọi cụm ếch giúp cây con, cây con mọc cao hơn, một hôm ếch rồng đang lùa gia súc lên rẫy nhưng trâu xuống ruộng ăn mất một phần lớn. Mùa gieo lại hạt đã muộn. (Thời đó, trình độ lương thực của con người còn thấp, cấy hết lúa mà không cấy được) Ếch rồng thấy thương trâu ăn mạ nên nhổ mạ đi cấy từ những nơi có mật độ mạ cao. . Vào mùa hè, có dịch hại, cào cào, ếch rồng huy động các đàn ếch để trừ sâu, đến vụ thu lúa cấy no căng, năng suất cao hơn so với gieo sạ. Vì vậy, vào năm thứ hai, H’mông Min đã sử dụng ếch rồng để phát minh ra phương pháp cấy cây con trong sản xuất lúa, sau vụ thu hoạch mùa thu, mỗi hộ gia đình đều có vụ thu hoạch đầu tiên trong năm.
Người H’mông đã có phong tục múa cột sống từ xa xưa, sau khi thu hoạch ngũ cốc, làng tổ chức hoạt động múa trống đốt sống lớn, có sự tham gia của đàn ông, phụ nữ và trẻ em từ khắp làng và các làng lân cận. Điệu múa bò đốt sống là cơ hội tốt để nam nữ thanh niên dân tộc H’mông tìm hiểu nhau, yêu nhau, tuy gọi là vợ chồng ếch rồng nhưng thực ra lại là vợ chồng. khác nhau, và họ chưa thiết lập được tình cảm vợ chồng. Vợ của Dragonfrog chỉ muốn sử dụng cơ hội này để tìm kiếm tình yêu đích thực. Buổi tối, nàng ra ngoài tham gia hoạt động múa trống, ếch rồng bí mật đi theo, bước đến sân đình thôn, cởi bộ da ếch rồng, nói với cha vợ chăm sóc. áo khoác của tôi.
Chú ếch rồng đã biến thành một chàng trai đặc biệt đẹp trai để tham gia các hoạt động múa trống và hát H’mông. Trong bữa tiệc lửa trại múa trống, chú ếch rồng đặc biệt đánh trống hoa cùng phu thê, màn biểu diễn uyển chuyển đến khán giả cổ vũ. Vợ của Dragon Frog tự nghĩ rằng thanh niên đẹp trai này chưa từng quen biết nhau, và cô ấy không biết rằng đó là từ kho, sẽ là ước nguyện cả đời được kết hôn với anh ta.
Sau khi đánh trống nửa đêm, ếch rồng xuất ngoại sớm, vào sảnh đất lấy bộ da ếch rồng đeo vào, sau khi người vợ về, anh ta cố tình dùng ngôn ngữ trêu ghẹo ếch rồng và nói:
“Tối nay có một chàng trai khiêu vũ với tôi. Anh ấy thật xinh đẹp. Tôi thực sự phải lòng anh ấy.”
“Chàng trai xinh đẹp giống hệt tôi,” ếch rồng nói.
“Thật đẹp, người ta đối với ngươi như con cóc.” Bà xã càng nói càng tức giận.
Đêm hôm sau lại diễn ra câu đối trên trống đồng Vợ đi đánh đàn trước, ếch rồng vẫn hành xử như đêm qua Anh ra đồng trông vợ để biểu diễn những câu hát đối đáp đầy xúc động. lời bài hát ngọt ngào đến mức tôi đã nghe nó. Giọng hát, mở ra lời khen ngợi của khán giả.
Sau khi bài đối đáp kết thúc, ếch rồng đến trước thổ địa lấy bộ da ếch rồng mặc vào rồi trở về nhà, sau khi vợ về, anh ta còn dùng lời lẽ ghen tuông kích động ếch rồng nói. :
“Trên sân khấu bài hát tối nay, người đàn ông trẻ đẹp đó đã hát cùng tôi một cách đặc biệt. Lời bài hát thực sự cảm động, và giọng hát rất đẹp. Sẽ là hạnh phúc của cuộc đời tôi nếu được kết hôn với anh ấy.”
“Người thanh niên đó đẹp trai như tôi, và lời bài hát cũng gần giống tôi.”
“Con cóc, ngươi không biết xấu hổ nói chuyện sao?”
Sau hai đêm trò chuyện ở nhà, vợ của ếch rồng bắt đầu nghi ngờ ếch rồng. Đêm thứ ba, ếch rồng tiếp tục múa trống, vợ ếch rồng giả vờ ra ngoài trước nhưng trốn trong bóng tối, ếch rồng nhảy ra ngoài, nàng bí mật đi theo để thăm dò những bí mật. Ếch rồng nhảy đến trước sảnh đất, cởi bỏ da ếch và trốn trong sảnh đất, biến thành người thanh niên tuấn tú kia và đi về phía sân hát. Tất cả sự thật được đưa ra ánh sáng, và vợ của chú ếch rồng vô cùng phấn khích, cô lấy tấm da ếch rồng từ sảnh đất ra và giấu nó vào trong quần lót rồi vội vã đến nơi biểu diễn âm nhạc. Trên sân trống, hai động tác truyền cảm thêm uyển chuyển, đôi đẹp cất lên tiếng hát tình yêu vô bờ bến của một đôi trai gái yêu nhau. Sự việc kéo dài đến sáng sớm, ếch rồng trở về Tiantang nhưng không thấy áo nên đành phải trở về nhà, vợ chồng thầm thương mến nhau, thổ lộ lòng nhau, thật tình chung sống. một cuộc sống hôn nhân tình yêu nam nữ.
Vợ chồng ếch rồng quen nhau được một năm thì hỏi vợ về tung tích của tấm da ếch rồng.
Người vợ nói: “Vợ chồng chúng tôi ân ái, hạnh phúc quá. Chúng tôi hỏi đối tượng đã làm gì rồi. Anh còn muốn bỏ tôi không?”
“Không có ý tứ này, ngươi cùng ta vợ chồng ân ái, làm sao có thể nguyện ý tách ra, nhưng cái kia áo khoác là thứ trên người của ta, ta chỉ thiếu chút nữa là được.”
Vợ của ếch rồng thấy chồng có tình cảm sâu nặng với mình, nhất định về già sẽ không chia lìa nên đã nói thật:
“Anh để dành áo khoác cho em.”
“Tôi muốn lấy ra xem có hỏng không, không biết giấu ở đâu?”
Người vợ đáp: “Giấu dưới cột nhà, anh lấy ra xem thử”.
Ếch rồng lấy da ếch rồng từ dưới trụ đá của cột nhà ra, thấy da ếch co lại và khô đi, hắn mới nhớ ra mình là người ngoài hành tinh, hắn sẽ trở về Long cung sau. tất cả. Thế là tôi lấy một chậu nước, ngâm cho da ếch rồng khôi phục lại hình dáng ban đầu, đắp lên người, hóa thành ếch rồng rồi nhảy về phía giếng rồng. Thấy vậy, vợ anh ta tiếc hùi hụi, vội đuổi theo nhưng không kịp, ếch rồng đã nhảy xuống giếng. Vợ ếch rồng kêu khóc, mẹ già nghe tiếng, đến giếng hỏi rõ âm mưu, cũng khóc, con gái khóc ngất, hôn mê chết đi sống lại. Nghe tiếng, dân làng chạy đến thuyết phục hết nước mắt, người mẹ già không chịu mang xác con gái về, khóc lóc canh xác con gái bên giếng ba ngày ba đêm, xác con bắt đầu thối rữa rồi sinh ra. Người mẹ già hay tin con gái rơi khỏi xác. Thịt, tôi hái một ít lá dâu, lá rộng bên giếng rồi gói giòi về nhà, sau đó nhờ dân làng giúp Ann chôn xác con gái.
Mang lại những con giòi đó nhưng lại gặm lá dâu, mẹ già thấy vậy hái lá dâu về cho ăn hàng ngày, càng để lâu thì sâu càng trắng và béo hơn, gái làng chơi xúm lại. đã theo dõi khi họ biết chuyện Cô có cảm tình với cô và rất yêu thích côn trùng nên được gọi là cô bé tằm. Sau ba giấc ngủ trọn vẹn và ba giấc ngủ say, can phi nhổ ra những sợi tơ trắng mỏng để quấn lấy mình và mẹ nó đã giữ lại những kén trắng này.
Vào mùa xuân năm thứ hai, mẹ già và các cô gái trong làng lấy những chiếc kén trắng từ bộ sưu tập ra cho những đứa con gái và bạn đồng hành của mình phơi mình trong nắng. Có chuyển động bên trong kén, và nhộng Bian’e trong từng kén chui qua vỏ kén, và những con bướm đêm mập mạp chui ra từ kén. Bầy bướm đêm vỗ cánh không bay cao, con đực và con cái giao phối với nhau, con cái đẻ trứng, con ruồi nhộng tằm, ai cũng mải miết hái lá dâu cho ăn. Sau khi tằm nhả tơ thành kén, các cô thôn nữ xinh đẹp nghĩ rằng, nếu kén trắng có thể kéo thành tơ, thêu thùa thì tuyệt biết mấy. Vì vậy, tôi cố gắng ngâm kén trong nước nóng, chắc chắn tơ mỏng và dài được rút ra và kéo thành sợi. Vì vậy, kén được gọi là “kén” (nhà của con tằm), và tơ rút ra được gọi là ” Tơ cáp ”(tơ tằm). Phụ nữ H’mông từ xa xưa đã yêu thích cái đẹp, hàng năm họ thu thập kén tằm, nhân giống và kéo lụa, nhuộm chúng bằng nhiều màu sắc với cây cỏ, thêu ren, dệt ruy băng hoặc vải lụa và sản xuất chúng để sử dụng cho riêng mình. Sau khi người H’mông trải qua chiến tranh và loạn lạc, các cô gái không quên mang theo trứng tằm và đến Tương Tây để sống một cuộc sống “thiên đường” “tằm thu hoạch tơ, thu chín thu thuế vua”.
Kết luận: Thời xa xưa, bộ tộc H’mông sống ở hạ lưu sông Hoàng Hà và trung lưu sông Dương Tử, sau vài lần di cư, họ định cư ở phía tây Hồ Nam, theo “Chuyện con tằm và con ếch rồng” Việc phát minh ra nghề trồng dâu nuôi tằm là thời kỳ chuyển từ xã hội mẫu hệ sang xã hội phụ hệ, sản xuất kết hợp, tục nhảy bò, giao duyên phù hợp với lịch sử phát triển xã hội và quy luật phát triển tự nhiên. Từ xưa đến nay, phụ nữ H’mông đã dùng lụa để thêu trang phục dân tộc. “Chuyện con tằm và con ếch rồng” khẳng định người H’mông là dân tộc đầu tiên phát minh ra nghề trồng dâu nuôi tằm và sản xuất nông nghiệp. Về câu truyện truyền thuyết này tại một số vùng có thể đã biến tấu đi một chút tuy nhiên chắc chắn nói đến Chàng rẻ Ếch thì ai cũng biết đó là tên trong truyện truyền thuyết người H’mông xa xưa.
Trích: (Sanmiao)Danzheng Wu – Ảnh mạng minh họa
Comment here
Bạn phải đăng nhập để gửi bình luận.